Binh pháp tôn tử 3

Cuốn "Binh Pháp Tôn Tử" do Tôn Vũ dâng lên Ngô vương Hạp Lư là cuốn binh pháp hoàn chỉnh, được viết vào năm 512 trước Công nguyên. Theo Sử ký và theo luận bàn về Tôn Tử của Tào Tháo, đều có ghi chép rõ ràng về 13 chương sách của Tôn Vũ.

Binh pháp Tôn Tử là binh thư sớm nhất, vĩ đại nhất thời cổ ở Trung Quốc, mà từ xưa đến nay được xếp hàng đầu trong Vũ Kinh Thất Thư.

Ảnh: Binh pháp Tôn Tử (sách tre)

Bước vào xã hội hiện đại, nhiều nước tư bản phát triển không hẹn mà cùng có ý tưởng vận dụng Binh pháp Tôn Tử để cải thiện vấn đề quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, giữa thế kỷ 20 tại Nhật Bản thậm chí còn hình thành một học phái kinh doanh bằng binh pháp, với sức ảnh hưởng lan toả khắp thế giới, hình thành cơn sốt nghiên cứu Binh pháp Tôn Tử trong lĩnh vực kinh tế. Nhiều công ty lớn thậm chí còn trực tiếp sử dụng Binh pháp Tôn Tử làm giáo trình huấn luyện dành cho các nhân viên quản lý bậc trung trở lên.

Vài nét sơ lược về Tôn Vũ. 

Tôn Vũ  (孙武) tên chữ Trưởng Khanh, người Lạc An nước Tề (nay là Huệ Dân, Sơn Đông, Trung  Quốc), ở cuối thời Xuân Thu (không xác định rõ năm sinh và năm mất), nhờ cuốn binh thư của mình mà được tôn là “Tử” (thầy), lại bởi Tôn Vũ hoạt động chủ yếu ở nước Ngô, nên được gọi là Ngô Tôn Tử để phân biệt với Tôn Tẫn (Tề Tôn Tử là người nước Tề ở thời Chiến Quốc).

Ảnh: Hình vẽ minh họa Tôn Vũ. 

Tôn Vũ kết thành mối quan hệ gắn bó với Ngũ Tử Tư là trọng thần của nước Ngô, cùng phò tá vua Hạp Lư (phụ thân vua Ngô Phù Sai – người bị Câu Tiễn của nước Việt đánh bại sau này).

Tôn Vũ dâng 13 thiên Binh pháp lên Ngô vương là Hạp Lư, được Ngô vương rất tán thưởng rồi phong làm quân sư. Tôn Vũ sau đó cùng với Ngũ Tử Tư trợ giúp Ngô vương cải cách chính sự, tăng cường quốc lực. Giới nghiên cứu lịch sử cổ đại Trung Quốc khi đã nghiên cứu, đối chiếu, tổng hợp, so sánh từ các sử liệu đã đưa ra kết luận: Trong sự nghiệp làm tướng của mình, Tôn Vũ trực tiếp chỉ huy 5 trận đánh và chính năm trận chiến “để đời” này đã góp phần đưa tên tuổi, uy danh và tài thao lược quân sự của ông lừng lẫy khắp thiên hạ, lưu danh sử sách.

Trận thứ nhất: Diệt hai nước chư hầu của Sở (nước Chung Ly và nước Từ) vào khoảng tháng 12 năm 512 trước Công nguyên. 

Trận thứ 2: Chiếm hai xứ Lục, Tiềm (thuộc nước Sở), vào khoảng năm 511 trước Công nguyên. 

Trận thứ 3: Phá 16 vạn quân nước Việt (Đại chiến Huề – Lý), khoảng năm 509 trước Công nguyên. 

Trận thứ 4: Đánh bại quân nước Sở lần thứ ba, khoảng năm 509 trước Công nguyên. 

Trận thứ 5: Đại phá 25 vạn quân Sở (cuộc chiến Bách Cử), khoảng tháng 11 năm 506 trước Công nguyên. 

Sau khi lập được công lao, Tôn Vũ không muốn làm quan, cố tình về núi làm dân thường, mai danh ẩn tích, cuối cùng không ai biết cuộc đời của ông kết thúc như thế nào, vẫn là một bí ẩn.

BINH PHÁP TÔN TỬ

HIÊN THỨ 1:  KẾ SÁCH.

Tôn Tử viết: Chiến tranh là đại sự của quốc gia, quan hệ tới việc sống chết của nhân dân, sự mất còn của nhà nước, không thể không khảo sát nghiên cứu cho thật kỹ. Cho nên, phải dựa vào  năm mặt sau đây mà phân tích, nghiên cứu, so sánh chiến tranh:

Một là:  Đạo: là chỉ việc chính trị, đạo nghĩa, phải làm cho nguyện vọng của dân chúng và vua nhất trí với nhau, đồng tâm đồng sức. Có như vậy, trong chiến tranh mới có thể bảo nhân dân mà vì vua mà chết, vì vua mà sống, không sợ hiểm nguy.

Hai là:  Thiên: là thiên thời, nói về ngày đêm, trời râm trời nắng, trời lạnh trời nóng, tức tình trạng về khí hậu trời tiết.

Ba là:   Địa: là địa lợi, nói về đường sá xa gần, địa thế hiểm yếu hay bằng phẳng, khu vực tác chiến rộng hẹp, địa hình phải chăng có lợi cho tiến công, phòng thủ, tiến thối.

Bốn là:  Tướng: là tướng soái, tức nói về tài trí, uy tín, lòng nhân ái, lòng can đảm, sự uy nghiêm của người tướng.

Năm là:  Pháp: tức là pháp chế, nói về tình trạng tổ chức, biên chế, sự quy định về hiệu lệnh chỉ huy, sự phân chia chức quyền của tướng tá, sự cung ứng vật tư cho quân đội và chế độ quản lý…

Tình huống về năm mặt nói trên, người tướng soái không thể không biết. Chỉ khi nào hiểu rõ và nắm chặt được những tình huống đó thì mới có thể giành được sự thắng lợi. Không thật sự hiểu rõ và nắm chắc được thì không thể đắc thắng. Cho nên từ bảy mặt sau mà tính toán, so sánh những điều kiện đôi bên giữa địch và ta để tìm hiểu tình thế thắng bại trong chiến tranh. Tức là phải xem xét:

Vua bên nào có nền chính trị được lòng dân hơn?

Tướng soái bên nào có tài năng hơn?

Thiên thời – địa lợi bên nào tốt hơn?

Pháp lệnh bên nào được quán triệt hơn?

Thực lực quân đội bên nào mạnh hơn?

Binh sĩ bên nào được huấn luyện thành thục hơn?

Thưởng phạt bên nào nghiêm minh hơn?

Căn cứ vào những điều đó, ta có thể tính toán mà biết trước được ai thắng ai thua.

Nguyên tác: “Tướng thinh ngã kế, dụng chi tất thắng, lưu chi. Tướng bất thinh ngã kế, dung chi tất bại, khứ chi.” (Nếu chịu nghe theo mưu kế của ta, để cho ta chỉ huy tác chiến thì chiến tranh có thể thắng lợi, ta ở lại. Nếu không chịu nghe theo mưu kế của ta, cho dù có dùng ta để chỉ huy tác chiến, chiến tranh tất nhiên bị thất bại, ta sẽ rời đi.)

Nếu kế sách có lợi và được chấp thuận, còn phải tìm cách tạo ra tình thế có lợi để làm điều kiện phụ trợ bên ngoài cho việc tiến hành chiến tranh. Thế tức là căn cứ vào tình huống phải chăng có lợi để mà hành động tương ứng.

Nguyên tác: “ Binh giả, quỷ đạo giả.” (Dùng binh đánh giặc là hành động dối trá.)

Thông thường:

Có thể tấn công thì giả như không thể tấn công.

Muốn đánh như giả không muốn đánh.

Muốn hành động ở gần nhưng giả như muốn hành động ở xa, muốn hành động ở xa nhưng lại giả như muốn hành động ở gần.

Lấy lợi dụ kẻ tham, chiến thắng kẻ loạn, phòng bị kẻ có thế lực, tránh kẻ thù mạnh, khiêu khích kẻ hay giận giữ.

Địch khinh thường thì làm cho chúng thêm kiêu căng.

Địch nhàn hạ thì làm cho chúng vất vả.

Địch đoàn kết thì làm cho chúng ly tán.

Nguyên tác: “ Công kỳ vô bị, xuất kỳ bất ý.” (Tấn công kẻ thù lúc chúng không phòng bị, hành động khi chúng không ngờ tới).

Tất cả những điều nói trên đều là sự khôn khéo để thủ thắng của nhà quân sự nhưng lại không thể quy định trước một cách máy móc. Phàm trước khi khai chiến, đoán được thắng là do tính toán đầy đủ. Trước khi khai chiến mà đoán không thắng là do tính toán không chu đáo. Tính nhiều hơn tính ít huống chi không tính toán gì. Quan sát đầy đủ các mặt đó, ai thắng ai bại có thể đoán trước được.

THIÊN THỨ 2: TÁC CHIẾN.

Tôn Tử viết: Nguyên tắc chung khi dụng binh tác chiến là khi phải huy động chiến xa nghìn chiếc, quân đông mười vạn, vận lương đi xa nghìn dặm thì tình huống đó, chi phí ở tiền phương và hậu phương, chi phí đãi khách khứa sứ thần, bảo dưỡng và bổ sung tiêu phí nghìn vàng mới có thể cho mười vạn quân xuất chinh được. Dùng một đạo quân khổng lồ như thế để tác chiến thì đòi hỏi phải thắng nhanh. Nếu kéo dài thời gian, quân đội sẽ mệt mỏi, nhuệ khí sẽ suy giảm, tấn công thành trì sẽ hao hết sức chiến đấu, quân đội tác chiến ở ngoài lâu có thể làm nền tài chính của quốc gia gặp khó khăn. Nếu quân đội mệt mỏi, nhuệ khí suy giảm thì lúc đó cho dù là người tài giỏi sáng suốt đến đâu cũng không thể cứu vãn tình thế được. Dùng binh trong đánh giặc chỉ nghe nói trong tốc thắng vẫn còn thiếu sót vụng về chứ không bao giờ có việc kéo dài mà lợi cho quốc gia cả.

Cho nên: người không hiểu biết chỗ hại khi dụng binh thì không thể hiểu được chỗ lợi trong dụng binh. Người giỏi dụng binh, lính mãn ngũ không gọi lại, lương thực không vận tải quá 3 lần, quân nhu lấy tại nước mình, lương thực giải quyết tại nước địch. Được vậy thì lương thảo cấp dưỡng cho quân đội sẽ được thỏa mãn. Sở dĩ quốc gia phải nghèo vì dụng binh là do vận tải lương thực đi quá xa. Vận tải lương thực xa, bá tánh sẽ nghèo. Chung quanh nơi quân đội tập kết, vật giá sẽ cao vọt bất thường. Vật giá cao vọt sẽ làm cho tiền tài của bá tính khô kiệt. Tiền tài khô kiệt tất phải gấp rút thu thêm thuế. Sức mạnh tiêu hao hết, tiền tài khô kiệt, trong nước khắp đồng quê nhà nhà đều trống rỗng. Bá tính thiền tài mười phần hao bảy, quốc gia thì xe hỏng ngựa mỏi mười phần hết sáu. Cho nên tướng soái giỏi thì:

Lấy lương thực ở nước địch:

Ăn một chung gạo ở nước địch bằng hai mươi chung gạo ở nước nhà.

Dùng một thạch cỏ ở nước địch bằng  hai mươi thạch cỏ ở nước nhà.

Muốn quân hăng hái giết địch phải làm quân biết hận địch.

Cướp của địch mà thưởng cho quân nhà.

Đánh bằng xe, cướp được hơn mười cái thì thưởng cho người đầu tiên cướp được.

Bỏ cờ xe địch, cắm cờ quân nhà mà dùng chung với xe nhà.

Đãi tù binh tử tế thì thắng địch mà làm quân nhà thêm mạnh.

Thế nên dụng binh cốt thắng không cốt kéo dài. Tướng soái giỏi dụng binh là thần hộ mệnh của dân, là người giữ sự an nguy cho quốc gia.

THIÊN THỨ 3: MƯU CÔNG.

Tôn Tử viết:

Đại phàm phép dụng binh làm cho cả nước địch khuất phục trọn vẹn là thượng sách, đánh nó kém hơn.

Làm cho toàn quân địch chịu khuất phục là thượng sách, đánh nó kém hơn.

Làm nguyên lữ quân địch khuất phục là thượng sách, đánh nó kém hơn.

Làm nguyên một tốt địch khuất phục là thượng sách, đánh nó kém hơn.

Làm nguyên một ngũ địch khuất phục là thượng sách, đánh nó kém hơn.

Thế nên bách chiến bách thắng cũng chưa phải là cách sáng suốt trong sự sáng suốt. Không cần đánh mà làm kẻ địch khuất phục mới gọi là sáng suốt trong sự sáng suốt.

Vì vậy, thượng sách trong việc dùng binh là lấy mưu lược để thắng địch, kế đó là thắng địch bằng ngoại giao, kế nữa là dùng binh thắng địch, hạ sách là tấn công thành trì. Đánh thành trì là biện pháp bất đắc dĩ, chế tạo chiến xa, vũ khí phải mất ba tháng mới hoàn thành, chuẩn bị binh mã lại mất ba tháng nữa. Tướng sốt ruột xua quân đánh thành trì thương vong ba phần mất một mà vẫn chưa hạ được. Đó là cái hại của việc đánh thành trì.

Do đó, người giỏi dụng binh thắng địch mà không phải giao chiến, đoạt thành mà không cần tấn công, phá quốc không cần đánh lâu, nhất định phải dùng mưu lược toàn thắng mà thủ thắng trong thiên hạ, quân không mỏi mệt mà vẫn giành thắng lợi hoàn toàn.

Phép dụng binh:

Gấp mười lần địch thì bao vây.

Gấp năm lần địch thì tấn công.

Gấp đôi lần địch thì chia ra mà đánh.

Ngang bằng địch thì phải đánh khéo.

Kém hơn địch thì phải rút, tránh giao tranh với địch.

Binh yếu mà đánh thẳng tất bị bắt làm tù binh.

Tướng soái là trợ thủ của quốc gia, trợ thủ tốt thì nước cường thịnh.

Vua có thể gây bất lợi cho việc quân trong 03 trường hợp sau đây:

Không biết quân không thể tiến mà bắt tiến, không biết quân không thể thoái mà bắt thoái.

Không biết việc quân mà can dự vào khiến tướng sĩ hoang man khó hiểu.

Không biết mưu kế dụng binh mà can dự vào khiến tướng sĩ băn khoăn nghi ngờ. Quân băn khoăn nghi ngờ thì các nước chư hầu thừa cơ tấn công. Đó là làm rồi mình khiến địch thắng.

Cho nên, năm điều có thể thắng:

Biết có khả năng đánh hay không có khả năng đánh, có thể thắng.

Biết dựa vào binh lực nhiều ít mà đánh, có thể thắng.

Quân tướng đồng lòng, có thể thắng.

Lấy quân có chuẩn bị đánh quân không chuẩn bị, có thể thắng.

Tướng giỏi mà vua không can thiệp vào, có thể thắng.

Nguyên tác: “Tri bỉ tri kỷ giả, bách chiến bất đãi. Bất tri bỉ nhi tri kỷ, nhất thắng nhất phụ. Bất tri bỉ bất tri kỷ, tất chiến tất đãi.” (Biết địch biết ta, trăm trận không bại. Biết ta mà không biết địch, trận thắng trận bại. Không biết địch không biết ta, trận nào cũng bại).

THIÊN THỨ 4:  HÌNH.

Tôn Tử viết:  Trước kia người giỏi dụng binh đánh giặc:

Trước tiên phải không để bại, sau mới đánh bại kẻ địch.

Không để bại là do mình, giành chiến thắng là tại địch.

Làm cho kẻ địch không thắng được mình nhưng không chắc làm kẻ địch bị ta đánh thắng.

Nguyên tác: “Thắng khả tri, i nhi bất khả vi”. (Thắng lợi có thể dự kiến nhưng không nhất thiết đòi hỏi được).  Dự đoán chiến thắng mà không hơn nhiều người thì chưa gọi là giỏi trong những người giỏi, thắng một trận mà thiên hạ gọi giỏi thì chưa gọi là giỏi trong những người giỏi, nhấc một cọng lông thì không kể là khỏe, nhìn thấy nhật nguyệt không kể là mắt tinh, nghe được sấm sét không kể là tai thính…

Nguyên tác: “Thiện thủ giả, tàng ư cửu địa chi hạ, thiện công giả, động ư cửu thiên chi thượng”. (Người giỏi thủ ém quân tại các loại địa hình, người giỏi công phát huy mọi thế mạnh, bảo toàn lực lượng mà vẫn toàn thắng). Không thể thắng được thì thủ, có thể thắng được thì công. Thủ là do chưa đủ điều kiện, công là khi điều kiện có thừa.

Người giỏi dụng binh:

Thường đánh bại kẻ địch dễ thắng nên việc giành được chiến thắng ấy không phải là trí dũng. Chiến thắng của họ là không có gì phải nghi ngờ vì nó dựa trên cơ sở tất thắng kẻ địch đã lâm vào thế thất bại.

Bao giờ cũng đặt mình vào thế thất bại (*) mà cũng không bỏ qua cơ hội nào để thắng địch.

Đội quân chiến thắng bao giờ cũng tạo điều kiện để thắng sau đó mới giao tranh.

Đội quân chiến bại thường giao tranh trước sau đó mới tìm chiến thắng bằng sự cầu may.

Có thể từ các mặt tu sửa cái lẽ không thể thắng để nắm được quyền quyết định sự thắng bại.

Phép dụng binh là:  Thứ nhất là ĐỘ, thứ hai là LƯỢNG, thứ ba là SỐ, thứ tư  là XỨNG. thứ năm  là THẮNG. Tính thế sinh độ, độ sinh lượng, lượng sinh số, số sinh xứng, xứng sinh thắng.

Thắng binh dùng “dật” đánh “thù”. Bại binh dùng “thù” chống “dật”.

Nguyên tác: “Thắng giả chi chiến dân dã, nhược quyết tích thủy ư thiên nhẫn chi khê giả, hình dã”. (Người chiến thắng là người có quân lực hùng mạnh, chỉ huy tác chiến dùng binh như tháo nước đổ từ trên trời xuống vậy, cái này gọi là HÌNH của binh lực).  (Dật = 1/24 lạng; Lạng = 1/24 thù).

THIÊN THỨ 5:  THẾ.

Tôn Tử viết:  Phàm việc điều khiển quân, bất kể nhiều hay ít là việc tổ chức biên chế quân đội, chỉ huy quân nhiều hay ít là vấn đề hiệu lệnh. Thống lĩnh toàn quân gặp địch tấn công mà không bị bại trận, ấy là nhờ vào thuật biến hóa kỳ ảo khi dùng binh là chính. Dùng binh công địch được thế như lấy đá chọi trứng, ấy là nhờ biết vận dụng chính xác tránh thực chọi hư.

Phàm việc tác chiến, dùng chính binh đối địch, kỳ binh thủ thắng. Tướng giỏi dùng binh sẽ biết biến hóa tác chiến như trời đất không bao giờ cùng đường, sông biển không bao giờ cạn nước, như mặt trăng mặt trời lặn rồi lại mọc, như bốn mùa thay đổi qua rồi lại đến. Âm nhạc không quá 5 âm thanh(*) nhưng biến hóa khôn lường nghe sao cho hết được. Sắc màu cũng chỉ có 5 màu(*) biến hóa nhìn sao cho tận. Vị bất quá cũng chỉ có 5 vị (*) nhưng biến hóa nếm sao cho đủ. Chiến thuật cũng có KỲ và CHÍNH nhưng biến hóa của kỳ và chính là vô cùng vô tận. Kỳ – chính chuyển hóa lẫn nhau như vòng tròn không có khởi điểm cũng không có kết thúc, ai có thể biết được?

Nước lã chảy xiết cuốn trôi cả đá gạch, đó là nhờ thế nước lũ. Chim ưng vồ mồi chỉ một cú có thể xé nát con mồi, đó là nhờ thế tiết nhanh như chớp nhoáng. Người chỉ huy giỏi là người biết tạo nên thế hiểm hay tiết chớp nhoáng. Thế hiểm như cung đã giương hết mức, tiết chớp nhoáng như lấy nỏ phóng lên, nhanh vô cùng.

Trong khi tác chiến, người ngựa rối loạn mà không để đội hình rối loạn. Hỗn loạn mù mịt mà vẫn đâu ra đấy, duy trì được thế tiết thì không bị bại.

Ta có tổ chức chặt chẽ thì khiến địch hỗn loạn. Ta có lòng dũng cảm thì khiến địch khiếp sợ. Ta có binh lực lớn thì khiến địch suy yếu. Chặt chẽ hay hỗn loạn là do ở tổ chức, dũng cảm hay khiếp sợ là do ưu thế tạo nên, lớn mạnh hay suy yếu là do thực lực đối sách thể hiện ra. Tướng giỏi là biết cách điều khiển quân địch, ngụy trang để dụ địch khiến địch di động theo ý mình, dùng lợi nhỏ dụ kẻ địch, địch ắt đến để chiếm. Dùng cách đó mà khiến quân địch đến nạp mạng.

Người giỏi tác chiến:

Biết tạo ra tình thế có lợi chứ không trách thuộc cấp, biết chọn lựa và sử dụng nhân tài để tạo nên lợi thế.

Tạo ra thế như lăn gỗ đá, gỗ đá ở chổ bằng thì nằm im, ở chổ nghiêng dốc thì dịch chuyển, vuông thì dừng mà tròn thì lăn.

Bởi vậy, người giỏi chỉ huy tác chiến cũng như lăn hòn đá tròn từ trên núi cao vạn trượng xuống chân núi. Thế tạo ra chính là như vậy.

THIÊN THỨ 6: HƯ – THỰC.

Tôn Tử viết:  Phàm đến chiến địa trước đợi địch là chiếm được thế chủ động an nhàn, đến chiến địa sau ứng chiến với địch là lâm vào thế mệt mỏi. Vì thế, người chỉ huy tác chiến giỏi là người có thể điều khiển quân địch chứ không thể theo sự điều khiển của quân địch.

Khiến quân địch đến nơi ta làm chủ trước là kết quả của việc dùng binh lợi nhỏ nhữ địch.

Khiến địch không thể đến nơi nó muốn, ấy là do ta ngăn cản được nó.

Địch nghỉ ngơi, ta phải làm cho nó mệt mỏi.

Địch đầy đủ lương thảo, ta phải làm cho chúng đói khát.

Địch đóng quân yên ổn, ta phải làm cho chúng di chuyển: đó là vì nơi ta tấn công nên địch phải đến ứng cứu.

Quân ta đến những nơi không bị địch ngăn trở, ta đánh mà chắc thắng là do ta tấn công vào nơi địch không cách gì phòng thủ. Ta phòng thủ vững chắc do ta biết trước nơi sẽ bị địch tấn công.

Ta muốn đánh thì dù địch có lũy cao hào sâu cũng phải ứng chiến với ta vì ta đánh vào nơi địch buộc phải ứng cứu.

Ta không muốn đánh thì vạch đất mà phòng thủ, địch cũng không thể đến đánh ta vì ta làm cho chúng phải đổi hướng tấn công.

Ta khiến địch để lộ thực lực mà ta thì vô hình, ta có thể tập trung binh lực còn địch thì phân tán lực lượng.

Người giỏi tiến công là người có thể làm cho địch không biết nơi mà phòng thủ. Người giỏi phòng thủ là người có thể làm cho địch không biết phải tấn công vào nơi nào. Vì thế ta có thể nắm vận mạng của quân địch trong tay.

Ta tiến công mà địch cản không nổi vì ta như tiến vào chỗ không người.

Ta thoái lui mà địch không đuổi theo vì ta hành động nhanh lẹ, địch không đuổi kịp.

Ta tập trung binh lực ở một nơi mà địch phân tán lực lượng ở mười chốn tức là ta dùng mười đánh một. Nhờ vậy, quân ta đông, quân địch ít, lợi thế hẳn cho ta. Dùng nhiều đánh ít, tương quan lực lượng ta với địch rõ ràng là mình thắng.

Nơi ta tiến công, địch chẳng thể nào biết, không thể biết ắt địch phải bố trí phòng thủ nhiều nơi. Phòng thủ nhiều nơi thì quân số bị phân bố, ắt nơi ta cần tiến công sẽ có ít quân địch.  Binh lực địch mỏng là vì phòng bị khắp nơi. Binh lực ta dồi dào là nhờ buộc địch phải phòng bị khắp chổ.

Địch giữ được “mặt tiền” thì “mặt sau” mỏng yếu, giữ đuợc bên trái thì bên phải yếu mỏng.

Biết trước chiến địa và thời gian giao tranh thì dù xa ngàn dặm cũng có thể giao phong với địch.

Không biết sẽ đánh ở đâu và vào lúc nào thì cánh trái và cánh phải không thể tiếp ứng lẫn nhau, mặt tiền và mặt hậu không thể ứng cứu lẫn nhau.

Vượt người về số quân đâu có ích cho ta trong việc thắng bại, thắng lợi là do ta tạo thành, quân địch tuy đông ta có thể làm cho chúng không thể đấu với ta được.

Bày mưu lập kế, phân tích kế hoạch tác chiến của quân địch, khiêu khích địch để nắm tình hình và phương cách hành quân của địch. Căn cứ vào sự thay đổi tình hình của quân địch mà vận dụng linh hoạt chiến thuật. Chiến thiến lần sau không gặp lại phương thức đã dùng trong lần trước mà phải thích ứng với tình hình mới, biến hóa vô cùng vô hình.

Trinh sát xem chỗ nào có lợi, chỗ nào bất lợi.

Đánh thử xem binh lực của địch mạnh hay yếu thực hư thế nào.

Ngụy trang thật khéo khiến địch không tìm ra tung tích thì dù gián điệp có vào sâu trong đội hình cũng không biết rõ được quân ta, kẻ địch khôn ngoan mấy cũng không biết cách đối phó với quân ta.

Người ngoài chỉ biết ta dùng phương kế thắng địch chứ không biết ta đã vận dụng phương kế đó như thế nào.

Thắng lợi trên chiến trường là do ta biết tránh chỗ cứng, chỗ thực của quân địch mà đánh vào chỗ mềm, chỗ hư của địch.

Dụng binh cũng như dòng nước chảy: từ chổ cao đổ xuống chổ thấp.

Dụng binh tác chiến không có tình thế cố định, không có phương thức nhất định.

Dựa vào biến đổi của địch mà chiến thắng thì gọi là dụng binh như thần.

THIÊN THỨ 7:  QUÂN TRANH.

Tôn Tử viết:  Phàm dụng binh chi pháp, tướng soái nhận lệnh vua, trưng tập dân chúng, tổ chức quân đội, sau mới bày trận đối địch. Trong quá trình đó, khó nhất là quân tranh nghĩa là giành lấy lợi thế, hiểu được phương pháp biến cong thành thẳng.

Phải biến đường cong thành đường thẳng: tuy đi đường vòng nhưng lấy cái lợi nhỏ dụ địch thì mới có thể xuất phát sau mà tới trước yếu địa cần tranh.

Phải biến bất lợi thành có lợi.

Quân tranh vừa có lợi, vừa có nguy hiểm:

Đem toàn quân có trang bị nặng nề đi tranh thì không thể đạt được dự định, nếu bỏ trang bị nặng thì trang bị nặng sẽ tổn thất. Quân đội không có trang bị nặng ắt sẽ thua, không có lương thảo ắt chết, không có vật tư ắt khó sống.

Cuốn giáp tiến gấp, ngày đêm không nghỉ để đi trăm dặm tranh lợi thì tướng lĩnh ba quân có thể bị bắt, lính khỏe tới trước, yếu tới sau, cuối cùng chỉ có một phần mười binh lực đến trước.

Đi năm mươi dặm tranh lợi, tướng lĩnh tiền quân sẽ bị chặn, chỉ có một nữa binh lực tới trước.

Đi ba mươi dặm tranh lợi, chỉ có hai phần ba binh lực tới trước.

Dụng binh đánh trận phải dựa vào biến hóa gian trá mới mong thành công.

Chưa biết ý đồ chiến lược của các chư hầu thì không thể tính việc kết giao.

Chưa thông địa hình sông núi, đầm hồ thì không thể hành quân.

Không dùng người dẫn đường không thể chiếm địa lợi.

Phải căn cứ vào chỗ có lợi hay không mà hành động, tùy cơ ứng biến, dựa vào sự tập trung hay phân tán binh lực mà thay đổi chiến thuật.

Quân đội hành động thần tốc thì nhanh như gió cuốn.

Quân đội hành động chậm rãi thì lừng thừng như rừng rậm

Khi tấn công thì phải như lửa cháy.

Khi phòng thủ thì như núi đá.

Khi ẩn mình thì như bóng tối.

Khi xung phong thì như sấm sét.

Chiếm được làng xã phải phân binh đoạt lấy, mở rộng lãnh thổ, phải phân binh trấn giữ.

Người giỏi dụng binh:

Nắm chắc sĩ khí quân đội: Sĩ khí của quân đội lúc mới giao chiến thì hăng hái, sau một thời gian dần dần suy giảm, tránh nhuệ khí hăng hái của quân địch cho đến khi nhuệ khí đó của chúng bị tiêu tan giảm sút rồi mới đánh, làm dao động quyết tâm của tướng địch.

Nắm chắc tâm lý quân đội: lấy nghiêm chỉnh của quân ta đối phó với sự hỗn loạn của quân địch, lấy sự bình tĩnh của ta đối phó với sự hoang mang của quân địch.

Nắm chắc sức chiến đấu quân đội: lấy gần chờ xa, lấy nhàn chờ mệt, lấy no chờ đói.

Nắm vững biến hóa chuyển động: không đi chặn đánh quân địch đang có hàng ngũ chỉnh tề, không đánh kẻ địch có thế trận và lực lượng hùng mạnh.

Nguyên tắc dụng binh:

Địch chiếm núi cao thì không đánh lên.

Địch dựa vào gò đống thì không nên đánh chính diện.

Địch vờ thua chạy thì không nên đuổi theo.

Địch tinh nhuệ thì chưa nên đánh vội.

Địch cho quân nhử mồi thì mặc kệ chúng.

Địch rút về nước thì không nên chặn đường.

Bao vây địch nên chừa một lối thoát cho chúng.

Địch cùng khốn thì không nên quá bức bách chúng.

THIÊN THỨ 8:  CỬU BIẾN.

Tôn Tử viết:  Phàm dụng binh chi pháp, tướng soái nhận lệnh vua, tập hợp quân đội quân nhu (giáo, khí, lương…) khi xuất chinh cần chú ý:

Ở “phỉ địa”: đất xấu, thì không dựng trại.

Ở “cù địa”: đất có đường thông suốt, phải kết giao với nước láng giềng.

Ở “tuyệt địa”: không được nấn ná.

Ở “vi địa”: đất bị vây, thì phải tính kế.

Ở “tử địa”: phải liều chết quyết chiến.

Có những đường không nên đi.

Có những loại địch không nên đánh.

Có những thành không nên công.

Có những vùng không nên giành.

Có những lệnh vua không nên nghe.

Tướng lĩnh thông minh suy tính tất phải cân nhắc hai phương diện lợi hại:

Gặp tình hình bất lợi, phải tìm cho được điều lợi mới thành đại sự.

G

Tin liên quan
    Copyright © 2023 CỬA HÀNG THỰC PHẨM LÊ VĂN SỸ. All rights reserved. Web design NiNa Co.,Ltd
    Online: 4   |   Tháng: 155  |   Tổng: 82640
    Hotline tư vấn miễn phí: 0909 399 480
    Zalo

    Gạo ST25

    Gạo sóc trăng ST25

    Gạo ST25 ngon nhất thế giới